Sunday, November 21, 2010

Phần 1-05: ĐỨC PHẬT - CUNG THỈNH ĐỨC PHẬT TRUYỀN BÁ GIÁO PHÁP

Đức Phật và Phật Pháp
(The Buddha and His Teachings)

Hòa thượng Narada, 1980
Dịch-giả Phạm-Kim-Khánh, 1998

"Người thấm nhuần Giáo Pháp sống hạnh phúc với tâm an lạc. Người trí tuệ luôn luôn hoan hỷ thỏa thích trong Giáo Pháp mà các bậc thánh nhân đã khám phá". -- Kinh Pháp Cú

Giáo Pháp Là Thầy

Sau ngày Thành Đạo, lúc còn ngự tại gốc cây Ajapala, trên bờ sông Neranjara (Ni Liên Thiền), Đức Phật ngồi hành thiền, và ý nghĩ sau đây phát sanh đến Ngài:

"Quả thật là đau khổ và không có ai để lễ bái và tỏ lòng tôn kính. Hay là ta hãy tìm đến một vị sa môn hay bà la môn nào để sùng bái!"

Rồi Ngài suy niệm:

"Ta phải tìm đến sống gần một vị sa môn hay bà la môn để tôn kính và lễ bái, hầu nâng cao giới đức (silakkhanda) đến mức toàn thiện chăng? Nhưng trên thế gian này không thấy ai, dầu trong hàng chư Thiên, Ma Vương hay Phạm Thiên, hay giữa những chúng sanh như sa môn, bà la môn, Trời và người, có giới đức cao thượng hơn ta để thân cận, tôn kính và sùng bái.

"Ta phải tìm đến sống gần một vị sa môn hay bà la môn nào để tôn kính và lễ bái, hầu nâng cao trạng thái định tâm (samadhikkhanda) đến chỗ toàn thiện chăng? Nhưng trên thế gian này không thấy ai, dầu trong hàng chư Thiên, Ma Vương hay Phạm Thiên, hay giữa những chúng sanh như sa môn, bà la môn, Trời và người, có giới đức cao thượng hơn ta để thân cận, tôn kính và sùng bái.

"Ta phải tìm đến sống gần một vị sa môn hay bà la môn nào để tôn kính và lễ bái, hầu nâng cao trí tuệ (pannakkahanda) đến mức toàn thiện chăng? Nhưng trên thế gian này không thấy ai, dầu trong hàng chư Thiên, Ma Vương hay Phạm Thiên, hay giữa những chúng sanh như sa môn, bà la môn, Trời và người, có trí tuệ cao thượng hơn ta để thân cận, tôn kính và sùng bái.

"Ta phải tìm đến sống gần một vị sa môn hay bà la môn nào để tôn kính và lễ bái, hầu đem sự giải thoát (vimuttikkhanda) đến mức toàn thiện chăng? Nhưng trên thế gian này không thấy ai, dầu trong hàng chư Thiên, Ma Vương hay Phạm Thiên, hay giữa những chúng sanh như sa môn, bà la môn, Trời và người, có sự giải thoát cao thượng hơn ta để thân cận, tôn kính và sùng bái."

Rồi tư tưởng sau đây phát sanh đến Ngài:

"Hay là Ta hãy tôn kính và sùng bái chính Giáo Pháp mà ta đã chứng ngộ?"

Lúc ấy Vị Phạm Thiên Sahampati hiểu được ý Phật nên từ cảnh giới Phạm Thiên, dễ dàng như một người khoẻ mạnh duỗi cánh tay thẳng ra, hay co tay vào, xuất hiện trước mặt Đức Phật. Và, đắp y ngoại lên vai mặt, để trống vai trái [1] quỳ xuống chắp tay đảnh lễ Đức Phật và bạch:

"Quả thật vậy, Bạch Đức Thế Tôn, quả như vậy, Bạch Đức Như Lai, Bạch Ngài, những bậc Ứng Cúng, những bậc Chánh Đẳng Chánh Giác trong quá khứ đều tôn kính và sùng bái chính Giáo Pháp này.

"Những bậc Ứng Cúng, những bậc Chánh Đẳng Chánh Giác trong tương lai sẽ tôn kính và sùng bái chính Giáo Pháp này.

"Bạch Đức Thế Tôn, cầu xin Ngài là bậc Ứng Cúng, bậc Chánh Đẳng Chánh Giác trong thời hiện đại, cũng tôn kính và sùng bái Giáo Pháp ấy!"

Phạm Thiên Sahampati bạch với Đức Phật như vậy và thêm rằng:

"Những bậc Chánh Biến Tri trong quá khứ, vị lai và hiện tại, những vị đã giúp cho nhiều vị được thoát khổ - tất cả những vị ấy đã, sẽ, và đang tôn kính Giáo Pháp cao Thượng. Đó là đặc tánh của chư Phật.

"Vậy, ai muốn tìm trạng thái an lành cho mình và mong chờ sự trưởng thành của mình, chắc chắn phải tôn kính Giáo Pháp Cao Quý và ghi nhớ nằm lòng bức thông điệp của chư Phật".

Phạm Thiên Sahampati bạch như vậy và cung kính đảnh lễ Đức Phật, đi vòng quanh Ngài từ trái sang mặt và biến mất. Vì chư Tăng cũng có những đặc tánh vĩ đại cao thượng, nên cũng xứng đáng thọ lãnh sự tôn kính của Đức Phật [2].

Cung Thỉnh Truyền Bá Giáo Pháp

Ngài đi từ gốc cây Rajayatana đến gốc cây Ajapala. Lúc ngồi trầm tư, những tư tưởng sau đây phát sanh:

"Giáo Pháp mà Như Lai đã chứng ngộ quả thật thâm sâu huyền diệu, khó nhận thức, khó lãnh hội, vắng lặng, cao siêu, không nằm trong phạm vi luận lý, tế nhị, chỉ còn bậc thiện trí mới thấu hiểu. Chúng sanh còn luyến ái trong nhục dục ngũ trần. Lý nhân quả tương quan "Tùy Thuộc Phát Sanh", là một đề mục rất khó lãnh hội, và Niết Bàn -- trạng thái chấm dứt mọi hiện tượng phát sanh có điều kiện, từ bỏ mọi khát vọng, tiêu diệt mọi tham ái, không luyến ái và chấm dứt -- cũng là một vấn đề không phải dễ lãnh hội. Nếu Như Lai truyền dạy Giáo Pháp ấy, kẻ khác ắt không thể hiểu được. Thật là phí công vô ích, thật là phí công vô ích."

Rồi những câu kỳ diệu sau đây, chưa từng được nghe trước kia, phát sanh đến Đức Phật:

"Như Lai đã khó khăn lắm mới chứng ngộ được "Giáo Pháp". Không cần phải phổ biến "Giáo Pháp" ngay lúc này. Người còn mang nặng tham ái và sân hận không dễ gì thấu triệt. Người tham ái chìm đắm trong đêm tối, không thấy được Giáo Pháp, vì lòng tham ái bao phủ như đám mây mờ đen nghịt, vì Giáo Pháp đi ngược dòng với tham ái. Giáo Pháp sâu kín, thâm diệu, khó nhận thức và rất tế nhị".

Nghĩ như vậy, Đức Phật chưa quyết định truyền bá Giáo Pháp. Lúc ấy vị Phạm Thiên Sahampati sợ Ngài không truyền bá Giáo Pháp và vì không được nghe Pháp thế gian phải diệt vong, nên đến cung thỉnh Đức Phật như sau:

"Bạch hóa Đức Thế Tôn, cầu xin Đức Thế Tôn truyền dạy Giáo Pháp! Cầu xin Đấng Trọn Lành truyền bá Giáo Pháp! Có những chúng sanh bị ít nhiều cát bụi vướng trong mắt, nếu không nghe được Giáo Pháp sẽ phải trầm luân sa đọa. Nhưng cũng có người sẽ chứng ngộ chân lý".

Sau đó vị Phạm Thiên lưu ý Đức Phật:

"Thuở xưa tại Magadha (Ma Kiệt Đà) có phát nguyên một Giáo Pháp không tinh thuần, do người trần tục suy tìm ra. Cầu xin Đức Thế Tôn hoan hỷ rộng mở cửa Vô Sanh Bất Diệt.

"Xin Đức Thế Tôn cho phép mọi người được nghe Giáo Pháp mà bậc Vô Nhiễm, đấng Tuyệt Đối Thanh Tịnh đã chứng ngộ. Cũng như người đứng trên ngọn núi đá cao nhìn xuống, thấy rõ ràng từng người ở vòng quanh phía dưới, bậc Toàn Giác, bậc Thiện Trí, đứng trên đỉnh tối cao của lâu đài Pháp Bảo huy hoàng! Kính xin đấng Toàn Tri hãy nhìn xuống chúng sanh đang chìm đắm trong biển khổ và triền miên lăn trôi trong vòng sanh tử luân hồi!

"Xin cung thỉnh Ngài là bậc Anh Hùng, là người Chiến Thắng, là Đấng Vô Thiện Điều Ngự Trượng Phu, Người đã Tháo Gỡ mọi trói buộc. Xin Ngài hoan hỷ đứng lên và châu du khắp thế gian! Xin Đức Thế Tôn truyền bá Giáo Pháp! Sẽ có người lãnh hội được!"

Đức Phật trả lời:

"Này hỡi Phạm Thiên, Như Lai thầm nghĩ: Người còn vấn vương trong tham ái và sân hận không dễ gì lãnh hội được Giáo Pháp mà Như Lai đã chứng ngộ. Người tham ái chìm đắm trong đêm tối, bị đám mây mù tham ái bao phủ, sẽ không thấy được Giáo Pháp bởi Giáo Pháp đi ngược dòng với tham ái. Giáo Pháp sâu kín, thâm diệu, khó nhận thức và tế nhị. Vì suy gẫm như thế Như Lai chưa quyết định truyền bá Giáo Pháp".

Vị Phạm Thiên cung thỉnh Đức Phật lần thứ nhì. Đức Phật trả lời như trước.

Khi vị Phạm Thiên cung thỉnh lần thứ ba, Đức Thế Tôn dùng thiên nhãn quan sát thế gian.

Ngài nhận thấy rằng chúng sanh kẻ ít người nhiều đều có bụi trong mắt, người thông minh sáng suốt, kẻ ngu muội tối tăm, bẩm tánh của người này tốt, người kia xấu, có chúng sanh dễ dạy cũng có chúng sanh khó dạy, và một số ít khác, với lòng biết lo sợ, nhận thấy mối hiểm họa của một kiếp sống tương lai.

Cũng như trong đầm sen. Sen xanh, đỏ, trắng lẫn lộn. Có những cây mọc từ trong nước, trưởng thành trong nước, sống trong lòng nước, và sởn sơ tươi tắn trong nước. Có những cây sanh trong nước, trưởng thành trong nước, và ló dạng trên mặt nước. Có những cây khác sanh trong nước, trưởng thành trong nước và vượt lên khỏi mặt nước, không vướng chút bùn nhơ.

Đức Phật tuyên bố:

"Cửa Vô Sanh Bất Diệt đã rộng mở cho chúng sanh. Hãy để cho ai có tai muốn nghe đặt trọn niềm tin tưởng. Vì biết có sự mệt mỏi dã dượi trong thế gian nên trước kia Như Lai phân vân, chưa quyết định truyền dạy Giáo Pháp vinh quang và hoàn hảo".

Phạm Thiên Sahampati lấy làm hoan hỷ, vui mừng rằng đã được cơ hội thỉnh cầu Đức Thế Tôn hoằng dương Giáo Pháp, tôn kính đảnh lễ Ngài, rồi đi một vòng quanh từ trái sang phải, chỗ Đức Phật ngồi, rồi bái từ lui gót.

Hai Thiện Tín Đầu Tiên

Sau bốn mươi chín ngày không ăn uống, lúc Đức Phật ngồi dưới cội cây Rajayatana, có hai thương gia tên Tapassu và Bhallika từ Ukkala (Orissa), trên đường về quê nhà, đi ngang qua chỗ Đức Phật ngự. Khi đến gần nơi ấy hai vị lái buôn được một vị Trời [3], vốn là bà con họ hàng trong một tiền kiếp, mách bảo như thế này:

"Này hai ông, Đức Thế Tôn vừa chứng đắc Đạo Quả Chánh Đẳng Chánh Giác, đang ngự dưới cội Rajayatana phiá trước kia. Hai ông hãy nhanh chân đến đó dâng lên Ngài bột khô và mật [4]. Phước báu này sẽ đem lại cho hai ông an vui và hạnh phúc lâu dài."

Hai vị thương gia vui mừng, tiếp nhận lấy cơ hội vàng ngọc, sửa soạn bột và mật ong xong đến gần Đức Phật, cung kính đảnh lễ và thỉnh cầu Ngài chấp nhận hai lễ vật khiêm tốn ấy để hai người được an vui.

Đức Phật nghĩ:

"Các Đấng Như Lai không khi nào đưa tay thọ nhận vật thực. Không có bát, làm thế nào Như Lai có thể nhận lãnh hai lễ vật này?"

Lúc ấy bốn vị Đại Thiên Vương [5] đoán biết ý nghĩ của Đức Phật, từ bốn phương vội vã đem đến dâng lên mỗi vị một cái bát bằng đá [6] và bạch rằng:

"Bạch hoá Đức Thế Tôn, xin Ngài hoan hỷ chấp nhận bốn cái bát này và thọ thực trong ấy".

Đức Phật ân cần dùng bát thọ lãnh món vật thực đạm bạc được dâng đúng lúc ấy, sau thời gian nhịn ăn lâu ngày.

Sau khi Đức Phật độ thực xong, hai thương gia quỳ xuống dưới chân Ngài và bạch rằng:

"Bạch hoá Đức Thế Tôn, chúng con xin quy y Phật, quy y Pháp. Xin Ngài thâu nhận chung con làm thiện tin kể từ nay đến ngày cuối cùng của đời chúng con" [7].

Đó là hai thiện tín đầu tiên quy y Nhị Bảo [8].

Trên Đường Đến Banares

Khi chấp nhận lời thỉnh cầu của Phạm Thiên Sahampati, tư tưởng đầu tiên của Đức Phật trước khi bước lên con đường truyền giáo vĩ đại là:

"Ai là người đầu tiên sẽ thọ hưởng Giáo Pháp? Ai là người sẽ lãnh hội mau chóng Giáo Pháp?

"Có Alara Kalama [9] là người có học thức, thông minh, là bậc thiện trí, và đã lâu rồi không còn bao nhiêu bụi cát trong mắt. Hay là Như Lai sẽ giảng Giáo Pháp cho vị đạo sĩ này trước nhất. Đạo Sĩ này sẽ lãnh hội mau lẹ Giáo Pháp".

Một vị Trời hiện ra trước Đức Phật, đảnh lễ Ngài và bạch rằng: "Bạch hóa Đức Thế Tôn, Đạo Sĩ Alara Kalama đã từ trần một tuần nay."

Đức Phật dùng tuệ nhãn xác nhận điều này. Ngài nghĩ đến Uddaka Ramaputta [10]. Vị Trời lại xuất hiện và bạch rằng Đạo Sĩ Uddaka Ramaputta cũng đã viên tịch đêm hôm trước. Một lần nữa Đức Phật dùng tuệ nhãn xác nhận.

Sau cùng Đức Phật nghĩ đến năm vị Đạo Sĩ tinh tấn đã phục vụ Ngài trong lúc tranh đấu để tìm chân lý. Với nhãn quan siêu phàm, Ngài nhận thấy năm vị này đang ở vườn Lộc Giả, tại Isipatana, xứ Benares. Ngài lưu lại Uruvela, chờ lúc thấy thuận lợi sẽ lên đường sang Benares.

Trên đoạn đường đi từ Gaya đến cội Bồ Đề đã che mưa đỡ nắng cho Ngài trong những ngày sau cùng, trước khi thành đạt Đạo Quả Vô Thượng, một Đạo Sĩ tên Upaka gặp Đức Phật liền hỏi:

"Này hỡi Đạo Hữu! Ngũ quan của Đạo Hữu thật vô cùng sáng tỏ. Nước da của Đạo Hữu thật trong trẻo và tươi tắn. Hỡi này Đạo Hữu, vì sao Đạo Hữu từ bỏ đời sống gia đình? Thầy của Đạo Hữu là ai? Đạo Hữu truyền bá giáo lý của ai?"

Đức Phật trả lời:

"Như Lai đã vượt qua tất cả. Như lai đã thông suốt tất cả.
Như Lai đã buông xả, gỡ bỏ mọi trói buộc, đã thoát ly tất cả.
Như Lai đã chăm chú cố gắng tập trung tâm lực, diệt trừ tham dục tận gốc rễ (Đạo Quả A La Hán).
Đã thấu triệt tất cả. Như Lai còn gọi ai là thầy?
Không ai là thầy của Như Lai. [11]
Không ai đứng ngang hàng với Như Lai.
Trên thế gian này, kể cả chư Thiên và chư Phạm Thiên, không ai có thể sánh với Như Lai.
Quả thật Như Lai là một vị A La Hán trên thế gian này,
Như Lai là tôn sư vô thượng:
Chỉ một mình Như Lai là bậc Toàn Giác,
Vắng lặng và thanh tịnh.
Như Lai đang đi đến thành Kasi để vận chuyển bánh xe Pháp Bảo giữa thế gian mù quáng. Như Lai sẽ gióng lên hồi trống Vô Sanh Bất Diệt."

Upaka hỏi vặn:

"Này Đạo Hữu, vậy phải chăng Đạo Hữu đã tự nhận là A La Hán, bậc siêu hùng, quyền lực vô biên?"

Đức Phật trả lời:

"Tất cả những bậc siêu hùng đã chinh phục mọi ô nhiễm của mình đều giống Như Lai. Như Lai đã chinh phục, tận diệt tất cả những gì bất thiện, xấu xa tội lỗi. Vậy, này Đạo Sĩ Upaka, Như Lai là bậc siêu hùng".

Nghe xong, Đạo Sĩ Upaka lễ phép nói:

"Có thể được vậy chăng, đạo hữu?"

Và cúi đầu, quay lưng rẽ sang con đường nhỏ bên cạnh, đi luôn.

Đức Phật hoàn toàn thản nhiên. Trở ngại đầu tiên trên đường hoằng Pháp không làm Ngài nản chí. Ngài tiếp tục lần bước từ nơi này đến nơi khác, và một ngày kia đến vườn Lộc Giả, xứ Benares.

Gặp Lại Năm Đạo Sĩ

Thấy Đức Phật từ xa đến, năm vị Đạo Sĩ, anh em Kondanna (Kiều Trần Như), bàn thảo với nhau, quyết định không đảnh lễ Ngài với lòng tôn kính như xưa. Các vị ấy hiểu lầm thái độ của Bồ Tát khi, trong cuộc chiến đấu để thành đạt Đạo Quả, Ngài từ bỏ lối tu khổ hạnh quá khắt khe và chứng tỏ là tuyệt đối vô ích:

"Này các đạo hữu, Đạo Sĩ Gotama (Cồ Đàm) đang đi đến ta. Đạo Sĩ ấy xa hoa, không bền chí cố gắng và đã trở lại với đời sống lợi dưỡng. Đạo Sĩ ấy không đáng cho ta niềm nở tiếp đón và cung kính phục vụ. Ta khác nên rước bát và y. Nhưng dầu sao, cũng nên dọn một chỗ ngồi để sẵn. Nếu vị đạo sĩ ấy muốn ngồi cứ ngồi."

Tuy nhiên, khi Đức Phật bước lần đến Ngài, vẻ oai nghi cốt cách của Ngài tự nhiên cảm hoá năm đạo sĩ và, không ai bảo ai, người đến rước y và bát, người dọn chỗ ngồi, người đi lấy nước cho Ngài rửa chân. Mặc dầu vậy, năm đạo sĩ vẫn gọi Ngài là "avuso" (đạo hữu), một hình thứ xưng hô thường dùng giữa những người ngang nhau, hoặc để người bề trên xưng hô với kẻ dưới.

Đức Phật mở lời khuyên dạy:

"Này các Đạo Sĩ, không nên gọi Như Lai bằng tên hay bằng danh từ "avuso" (đạo hữu). Như Lai là Đức Thế Tôn, là Đấng Toàn Giác. nghe đây, các Đạo Sĩ, Như Lai đã thành đạt trạng thái Vô Sanh Bất Diệt (Amata) và sẽ giảng dạy Giáo Pháp. Nếu hành đúng theo giáo huấn của Như Lai, các thầy cũng sẽ sớm chứng ngộ bằng trí tuệ trực giác và sống cuộc sống thánh thiện cùng tột ngay trong kiếp này. Nhằm mục tiêu cao thượng này, nhiều người con trong các gia tộc quý phái sẽ rời bỏ tài sản, sự nghiệp và cuộc sống tại gia để trở thành người không tiền của, không cửa nhà."

Năm vị đạo sĩ liền trả lời:

"Này Đạo Sĩ Gotama (Cồ Đàm), trước kia với bao nhiêu cố gắng để nghiêm trì giới luật mà Đạo Hữu không thành đạt trí tuệ nào siêu phàm, cũng không chứng ngộ được gì xứng đáng với chư Phật. Giờ đây, sống xa hoa và từ bỏ mọi cố gắng, Đạo Hữu đã trở lại đời sống lợi dưỡng, thì làm sao mà có thể thành đạt được trí tuệ siêu phàm và chứng ngộ Đạo Quả ngang hàng với chư Phật?"

Đức Phật giải thích thêm: "Này các Đạo Sĩ, Như Lai không hề xa hoa, không hề ngừng cố gắng và không quay trở lại đời sống lợi dưỡng. Như Lai là Đức Thế Tôn, là Đấng Toàn Giác. Nghe đây các Đạo Sĩ! Như Lai đã thành đạt trạng thái Vô Sanh Bất Diệt và sẽ giảng dạy Giáo Pháp. Nếu hành đúng theo giáo huấn của Như Lai, các thầy cũng sẽ sớm chứng ngộ, bằng trí tuệ trực giác và sống cuộc đời thánh thiện cùng tột, ngay trong kiếp sống này. Nhằm mục tiêu cao thượng này nhiều người con trong các gia tộc quý phái sẽ rời bỏ tài sản sự nghiệp và cuộc sống tại gia để trở thành người không tiền của, không cửa nhà".

Lần thứ nhì năm đạo sĩ vẫn giữ nguyên thành kiến và tỏ ý thất vọng. Đến lần thứ ba, sau khi Đức Phật lặp lại lời xác nhận, năm đạo sĩ vẫn giữ vững lập trường, tỏ ý hoài nghi. Đức Phật hỏi lại:

"Này các Đạo Sĩ! Các thầy có biết một lần nào trước đây Như Lai đã nói với các thầy như thế không?"

- Quả thật không.

Đức Phật lặp lại lần thứ ba rằng Ngài đã là Đấng Toàn Giác và chính năm đạo sĩ cũng có thể chứng ngộ, nếu hành đúng giáo huấn.

Đó là những lời nói chân thật do chính Đức Phật thốt ra. Năm vị đạo sĩ là bậc thiện trí, mặc dù đã có thành kiến không tốt, khi nghe vậy nhận định chắc chắn rằng Đức Phật đã thành tựu Đạo Quả Vô Thượng và có đầy đủ khả năng để hướng dẫn mình. Năm thầy bấy giờ tin lời Đức Phật và ngồi xuống, yên lặng lắng nghe Giáo Pháp Cao Quý.

Trong khi Đức Phật thuyết Pháp cho ba vị thì hai vị kia đi trì bình, rồi tất cả sáu vị -- năm đạo sĩ và Đức Phật -- cùng độ thực với những gì mà hai vị đem về. Qua hôm sau, trong khi hai vị này nghe Pháp thì ba vị kia đi trì bình.

Tất cả năm vị đạo sĩ, vốn còn phải chịu sanh, lão, bệnh, tử và ái dục, được Đức Phật khuyên nhắc và giảng dạy, tất cả năm đều nhận thức thực tướng của đời sống và nỗ lực gia công nhằm thoát ra khỏi vòng đau khổ ấy để vượtn chỗ không sanh, không lão, không bệnh, không tử, không phiền não, không ái dục, Thanh Bình An Lạc cùng tột vô song, Niết Bàn, châu toàn tuyệt đối, không còn sanh, lão, bệnh, tử, phiền não và ái dục. Trí tuệ phát sanh, năm vị thấu hiểu rằng sự Giải Thoát của các Ngài rất là vững chắc, không thể lay chuyển, và đây là lần sanh cuối cùng. Các Ngài không bao giờ còn tái sanh nữa.

Kinh Chuyển Pháp Luân [12] đề cập đến Tứ Diệu Đế, là bài Pháp đầu tiên mà Đức Phật giảng cho năm vị. Khi nghe xong Đức Kondanna (Kiều Trần Như), niên trưởng trong năm vị, đắc Quả Tu Đà Huờn [13], tầng thánh đầu tiên trong tứ thánh. Về sau bốn vị kia cũng chứng đắc tầng thánh ấy. Đến khi nghe Đức Phật giảng kinh Anattalakhana Sutta [14] (Kinh Vô Ngã Tướng), đề cập đến pháp Vô Ngã thì tất cả năm vị đều đắc Quả A La Hán.

Năm Đệ Tử Đầu Tiên

Năm vị tỳ khưu minh mẫn vừa đắc Quả A La Hán cũng là năm vị đệ tử đầu tiên của Đức Phật. Tên các vị ấy là Kondanna, Bhaddiya, Vappa, Mahanama và Assaji.

Kondanna (Kiều Trần Như) là vị trẻ tuổi nhất trong tám vị bà la môn trước kia được Đức Vua Suddhodana (Tịnh Phạn) thỉnh đến dự lễ quáng đính của thái tử sơ sinh. Bốn người khác là con của bốn trong bảy vị bà la môn lớn tuổi kia. Tất cả năm anh em đều cùng nhau vào rừng hành đạo. Khi hay tin Thái Tử Siddhattha (Sĩ Đạt Ta) rời bỏ cung điện, cả năm cùng nhau đi tìm Đạo Sĩ Gotama (Cồ Đàm) để phục vụ. Nhưng đến khi Bồ Tát chấm dứt cuộc sống khổ hạnh ép xác vô ích và bắt đầu độ thực để bồi dưỡng lại sức khỏe đã hao mòn, thì cả năm vị ấy lấy làm thất vọng, bỏ Ngài đi Isipatana. Sau đó không bao lâu Bồ Tát đắc Quả Phật.

Đức Kondanna (Kiều Trần Như) là vị đệ tử đầu tiên của Đức Phật đắc Quả A La Hán và cũng là vị tỳ khưu cao hạ nhất trong Giáo Hội Tăng Già. Chính Ngài Assaji là người sẽ thâu phục và dẫn dắt Đức Sariputta (Xá Lợi Phất), vị đệ tử của Đức Phật mà về sau đứng đầu trong Giáo Hội.


Chú thích:

[1] Dấu hiệu tôn kính.

[2] Đức Phật thuyết bài Pháp này khi Ngài ngự tại Kỳ Viên Tịnh Xá (Jetavana Vihara), Savatthi, lâu sau khi thành lập Giáo Hội Tăng Già. Ngài muốn chứng tỏ lòng tôn kính của mình đối với Tăng Già để khuyên dạy bà Maha Pajapati Gotami nên dâng đến chư Tăng một bộ y mà bà đã có ý định ra công may để dâng đến Đức Phật.

[3] Danh từ Pali là Devata, cũng là một hạng chúng sanh trên quả địa cầu, hoặc trong những cảnh giới khác ngoài quả địa cầu, mắt người không thể trông thấy. Vị Trời này là quyến thuộc của hai thương gia trong một tiền kiếp.

[4] Sattu, bột rang khô và Madhu, mật ong, là lương thực mà du khách Ấn Độ thời ấy giờ thường mang theo.

[5] Catummaharajikas - Tứ Đại Thiên Vương, là Chư Thiên ở bốn phương Trời.

[6] Bản Chú Giải thêm rằng Đức Phật làm cho bốn cái bát nhập lại thành một.

[7] Buddham Saranam Gacchami (Con xin quy y Phật), Dhammam Saranam Gacchami (Con xin quy y Pháp), là câu kin đọc xin quy y khi làm lễ Nhị Bảo. Thuở bấy giờ Giáo Hội Tăng Già chưa được thành lập, nên chỉ có Nhị Bảo là Phật Bảo và Pháp Bảo. Vì Tăng Bảo chưa được thành lập nên hai vị không đọc câu xin quy y thứ ba Sangham Saranam Gacchami (Con xin quy y Tăng.)

[8] Bản Chú giải Túc Sanh Truyện ghi rằng khi hai thương gia xin Đức Phật một món gì để đem về thờ thì Đức Phật nhổ vài sợi tóc đưa cho hai người. Tục truyền rằng hai bảo vật ấy đến nay vẫn còn, và được tôn trí trong bảo tháp của chùa Swe Dagon tại Ngưỡng Quang (Miến Điện), một hãnh diện, mà cũng là một vinh quang của người Phật tử Miến Điện. Tháp to lớn này có hình một cái chuông úp lại, ở xa nhìn giống như một hòn núi bằng vàng.

[9] Vị đạo sư đầu tiên dạy Bồ Tát hành thiền tầng Vô Sở Hữu Xứ.

[10] Vị đạo sư thứ nhì, người đã dẫn dắt Ngài đến tầng thiền Vô Sắc cao nhất: Phi Tưởng Phi Phi Tưởng

[11] Đức Phật nói như vậy vì Ngài tự lực gắng, tự mình chứng ngộ Đạo Quả Tối Thượng, không có sự hỗ trợ của một vị thầy. Trước đó Ngài có thầy dạy những pháp thế gian, nhưng chính Ngài tự vạch ra con đường dẫn đến Đạo Quả Phật. Như vậy nói rằng Phật Giáo là sự trưởng thành tự nhiên của Ấn Độ Giáo là sai lầm.

[12] Xem Chương 6.

[13] Sotapatti. Tu Đà Huờn hay Nhập Lưu, là người lần đầu tiên bước chân vào dòng suối chảy đến Niết Bàn.

No comments: